Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2016

Trong khu vực công nghiệp, theo báo cáo của các địa phương, trung bình mỗi năm xảy ra 4245 vụ tai nạn lao động (TNLĐ), làm 4415 người bị nạn với 480 người chết, số vụ TNLĐ tăng hàng năm là 17,38%. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2005, so với cùng kỳ năm 2004 số vụ TNLĐ tăng 4,1%, số vụ tai nạn chết người tăng 5,5%, làm 2670 người bị nạn với 252 người bị chết. Tuy nhiên, đó chỉ là con số thống kê chưa đầy đủ. Theo số liệu tính toán của các cơ quan chức năng, của một số nhà khoa học thì con số TNLĐ xảy ra cao gấp hàng chục lần số báo cáo, ước tính trên 40.000 vụ/năm.
Tai nạn lao động không chỉ gây thiệt hại về người mà còn gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản. Theo số liệu báo cáo thì giai đoạn 2000 - 2004, bình quân mỗi năm chi phí cho TNLĐ từ người sử dụng lao động là 17,39 tỷ đồng, nhưng theo kết quả điều tra của Bộ LĐTBXH từ năm 2000 - 2002, tổng chi phí này ước tính khoảng 240 tỷ đồng/năm (gấp 14 lần số báo cáo ). Tổng số tiền trợ cấp TNLĐ do cơ quan bảo hiểm xã hội chi trả từ 2000 - 2004 là 197,2 tỷ đồng.
Trong khu vực nông nghiệp, theo số liệu điều tra cho thấy: Khoảng 30% số người trực tiếp phun thuốc bảo vệ thực vật có dấu hiệu bị nhiễm độc, riêng năm 2004 có 4.009 vụ nhiễm độc thuốc bảo vệ thực vật làm 10.355 người bị nhiễm độc và 154 người bị tử vong; tần suất tai nạn trong sử dụng điện là 7,99%o, trong sử dụng máy nông nghiệp là 8,56%o (tức là cứ 100.000 người lao động trong khu vực nông nghiệp thì có 799 người bị tai nạn trong sử dụng điện, 856 người bị tai nạn trong sử dụng máy nông nghiệp).

Về bệnh nghề nghiệp: Trong những năm qua, bệnh nghề nghiệp (BNN) có xu hướng gia tăng cả về số người mắc bệnh và loại bệnh. Nếu từ năm 1976 đến năm 1990 chỉ có 5497 người lao động bị mắc BNN thì từ năm 1990 đến năm 2004, số người mắc BNN đã tăng thêm gấp gần 3 lần, đưa tổng số người mắc BNN tính đến cuối năm 2004 là 21.597 người (mỗi năm có thêm 1000-1500 người mắc mới BNN). Trong khi các BNN cũ chưa giảm thì nhiều bệnh liên quan đến nghề nghiệp mới xuất hiện như trong ngành hải sản (bệnh viêm loét da, dãn tĩnh mạch, ...) và trong ngành y tế (HIV/AIDS, SARD,cúm H5N1)... mà chưa có điều kiện nghiên cứu, bổ sung. Đáng chú ý là chỉ có 10% số cơ sở sản xuất có nguy cơ gây BNN tổ chức khám BNN cho người lao động, cho nên trên thực tế số người mắc BNN cao gấp hàng chục lần số báo cáo. Tổng số tiền trợ cấp BNN do cơ quan bảo hiểm xã hội phải chi trả từ 2000 - 2004 là 50,81 tỷ đồng, riêng năm 2004 là 14,28 tỷ đồng
Theo dự báo của Bộ Kế hoạch – Đầu tư đến năm 2010 sẽ có trên 500 ngàn doanh nghiệp hoạt động, trong đó trên 95% là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng nếu phát triển với trình độ công nghệ lạc hậu và không chú ý đến An toàn lao động, vệ sinh môi trường như hiện nay sẽ làm tăng nguy cơ xẩy ra TNLĐ - BNN, đồng thời tạo ra áp lực rất lớn đối với cơ quan thanh tra lao động trong việc thanh tra, kiểm tra ATVSLĐ, bệnh nghề nghiệp và ô nhiễm môi trường lao động.
Việc nhập khẩu và đưa vào sử dụng các máy, công nghệ, vật liệu mới ngời những mặt tích cực, còn tiềm ẩn những nguy cơ về ATVSLĐ không thể lường trước do kết cấu, hình thức máy không phù hợp với vóc dáng, sức khỏe của người Việt Nam.
Xu thế phát triển mạnh các ngành công nghiệp khai khoáng, xây dựng và sự gia tăng sử dụng điện trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ làm tăng nguy cơ mất an toàn, vệ sinh và ô nhiễm môi trường lao động (Theo thống kê, số vụ TNLĐ trong lĩnh vực khai khoáng, xây dựng và sử dụng điện chiếm gần 50% tổng số vụ TNLĐ).
Sự phát triển các làng nghề, khu vực kinh tế hộ gia đình trong cơ chế thị trường nếu thiếu sự kiểm soát về ATVSLĐ cũng tiếp tục làm gia tăng ô nhiễm môi trường lao động, dẫn đến ô nhiễm môi trường sinh thái, gia tăng BNN.
Lực lượng lao động tăng nhanh cùng với sự chuyển dịch một lượng lớn lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp với trình độ tay nghề thấp, chưa có tác phong công nghiệp làm tăng nguy cơ xảy ra TNLĐ và BNN.
Cơ chế quản lý doanh nghiệp hiện nay đang chuyển đổi rất đa dạng, chưa ổn định, đặc biệt quá trình cổ phần hóa, tư nhân hóa ... làm cho công tác BHLĐ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong công tác quản lý, thực hiện luật pháp và các chính sách.
Dự báo tình hình TNLĐ, BNN trong giai đoạn 2006-2010.
Các nghiên cứu tình hình TNLĐ hàng năm trên thế giới cho thấy ở các quốc gia đang phát triển, tần suất TNLĐ chết người là 30 - 43 người /100.000 lao động  . Nước ta cũng không nằm ngoài qui luật đó, tần suất TNLĐ chết người theo thống kê ở nước ta vào khoảng 10- 30 người/100.000 lao động. Căn cứ theo kinh nghiệm của Tổ chức Lao động quốc tế ILO, căn cứ vào sự gia tăng số lượng lao động lên đến 56 triệu lao động vào năm 2010 và sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa ở nước ta, thì dự báo vào năm 2010 trong khu vực công nghiệp sẽ có khoảng 120 - 130 ngàn người bị TNLĐ với trên 1200 người chết, gây thiệt hại kinh tế khoảng 840- 910 tỷ đồng .
Hiện nay, chúng ta có 21 BNN được Nhà nước bảo hiểm. Đến năm 2010, dự kiến sẽ bổ sung vào danh mục trên ít nhất 10 loại BNN   làm tăng số lượng thống kê người bị mắc BNN. Bên cạnh đó, sự gia tăng ô nhiễm môi trường lao động, nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ cũng sẽ làm tăng số người mắc mới BNN. Căn cứ tốc độ gia tăng số người bị BNN trong những năm qua, có thể dự báo đến năm 2010 sẽ có trên 30 ngàn người mắc mới BNN, số thực tế mắc bệnh liên quan đến nghề nghiệp là sẽ là trên 200 ngàn người.

Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) ước tính thiệt hại về kinh tế do TNLĐ và BNN khoảng 4% GDP trên thế giới. Nếu theo cách tính này thì tổng thiệt hại kinh tế do TNLĐ và BNN gây ra ở Việt Nam sẽ là hàng ngàn tỷ đồng mỗi năm!
Từ thực trạng và dự báo TNLĐ và BNN trong các năm tới, nếu Việt Nam không có những biện pháp tích cực và kịp thời cải thiện điều kiện lao động để ngăn chặn sự gia tăng TNLĐ, BNN thì sẽ gây ra hiểm hoạ không chỉ cho một doanh nghiệp, một vùng mà còn có thể gây hậu quả nghiêm trọng đến an sinh xã hội, làm huỷ hoại môi trường, gây thiệt hại khôn lường về người và tài sản quốc gia.